1. Phân Tích Cơ Bản
Trong phân tích cơ bản, biện pháp chủ yếu được các nhà phân tích sử dụng để lựa chọn đầu tư vào cổ phiếu là các nguyên tắc cơ bản của nó. Phạm vi của nó khá rộng vì nó bao gồm sức mạnh tài chính, lãnh đạo ngành và việc quản lý chất lượng tốt. Những người sử dụng phương pháp cơ bản tìm kiếm những giá trị bị đánh giá thấp, có khả năng sinh lợi cao và tăng doanh thu từ các hoạt động kinh doanh cốt lõi, có khả năng trả nợ và có một dòng tiền tự do đáng kể bao gồm khả năng đưa vào sử dụng hiệu quả. Các chỉ số tài chính mà các nhà đầu tư quan tâm bao gồm thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS), hệ số thị giá và thu nhập cổ phiếu (PE), tỷ lệ giá hay giá trị ghi sổ (tỷ số P / B), tỷ suất lợi nhuận ròng và hệ thống thu nhập trên vốn cổ phần ROE).
EPS là thước đo lợi nhuận. Ví dụ: hai công ty có cùng thu nhập trên mỗi cổ phần, công ty nào có thể tạo ra cùng một khoản thu nhập sử dụng số vốn đầu tư tương đối thấp là công ty kinh doanh hiệu quả hơn. Trong khi đó, tỷ số P/E là số tiền mà các nhà đầu tư sẵn sàng chi trả cho mỗi đồng đô la thu nhập. Tỷ số P/E cao cho thấy các nhà đầu tư có định giá cao cho công ty đó nhưng nó cũng có thể chỉ ra rằng cổ phiếu đang được định giá quá cao. Ngoài P/E, các nhà đầu tư cũng sử dụng tỷ lệ PEG, cũng là 1 loại chỉ số P/E nhưng được dùng để điều chỉnh sự tăng trưởng. Những người sử dụng phương pháp cơ bản cũng sử dụng tỷ số P/B, tỷ số cho thấy kỳ vọng của thị trường đối với thu nhập trong tương lai của công ty. Nó thường được sử dụng kết hợp với lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, một biện pháp cho khả năng sinh lời.
Các công ty có thu nhập từ cổ phiếu ngày càng tăng cũng được ưa thích bởi các nhà đầu tư tìm kiếm thu nhập. Do đó, họ tìm kiếm thanh toán cổ tức phát triển nhanh, lợi tức cổ tức cao, và tỷ lệ thanh toán thấp. Một công ty có tỷ lệ chi trả thấp cho thấy sau khi đã trả khoản thu nhập từ cổ tức cho các nhà đầu tư nhưng công ty vẫn còn một khoản tiền đáng kể để tái đầu tư.
Ngoài ra, sự tăng trưởng công nghiệp mạnh mẽ và thị phần lớn cũng là những chỉ số được tìm kiếm nhiều nhất. Thậm chí với thị phần tương đối thấp nếu công ty chứng minh được khả năng mở rộng thị trường của mình bằng cách đầu tư vào các thị trường mới nổi, hoặc chiếm được thị phần hiện tại của các công ty khác. Khi xem xét đầu tư vào các quốc gia khác, người sử dụng phương pháp cơ bản cũng cân nhắc toàn bộ điều kiện của nền kinh tế và môi trường pháp lý.
2. Phân Tích Kỹ Thuật
Trong phân tích kỹ thuật, xu hướng giá và số lượng cổ phiếu được giao dịch là các chỉ số quan trọng. Để xác nhận mô hình giá cổ phiếu, các nhà phân tích kỹ thuật sử dụng chỉ số số lượng. Bất kỳ xu hướng nào đi cùng với số lượng tương đối cao cho thấy một xu hướng mạnh hơn khi khối lượng thấp. Chẳng hạn, nếu giá giảm và số lượng cổ phiếu đang giao dịch ở mức cao thì đây là một xu hướng giảm mạnh. Nếu cổ phiếu tăng đột ngột 5% trong một ngày ngay sau giai đoạn giảm triền miên, các nhà đầu tư có thể khẳng định đây là một sự đảo ngược xu hướng thực sự nếu số lượng giao dịch ngày hôm đó cao hơn so với mức trung bình của những ngày trước.
Phân tích kỹ thuật sử dụng hai chỉ số chính – chỉ số báo trước sự thay đổi (leading indicator) và chỉ số báo sau khi đã thay đổi (lagging indicator). Trong khi đó, các tín hiệu mua và bán được hình thành dựa trên hai cách – cắt điểm và phân kỳ. Cắt điểm xảy ra khi hai đường chéo giao nhau hoặc mức giá vượt trên đường trung bình. Sự phân kỳ chỉ đơn giản là trường hợp mà xu hướng giá và xu hướng chỉ số di chuyển theo hướng ngược lại. Các chỉ số này báo hiệu một xu hướng giảm về giá.
Một trong những chỉ số phổ biến nhất của phân tích kỹ thuật là Trung bình Biến đổi Phân kỳ Hội tụ (Moving Average Convergence/ Divergence – MACD). Nó được sử dụng để xác định sức mạnh, động lực, xu hướng, và thậm chí thời gian của một xu hướng. MACD là khoảng trống giữa đường trung bình biến đổi ngắn hạn và đường trung bình biến đổi dài hạn. Nếu MACD có kết quả tích cực, nó biểu thị đường trung bình động ngắn hạn ở vị trí cao hơn đường trung bình động dài hạn. Nếu ngược lại thì nó sẽ cho thấy một xu thế giảm. Một công cụ khác được sử dụng là biểu đồ MACD. Trong biểu đồ này thì sự khác biệt giữa chỉ báo MACD và đường trung bình động số mũ của chỉ báo MACD, được gọi là đường tín hiệu, sẽ được biểu thị bằng cột. Các cột cao hơn cho thấy xu thế lớn hơn phía sau một hướng nào đó mà các cột chỉ ra. Nếu đường tín hiệu nằm dưới đường MACD thì sẽ tạo ra tín hiệu mua. Mặt khác, nếu đường tín hiệu vượt qua đường MACD, tín hiệu bán sẽ xuất hiện.
Phân tích kỹ thuật cũng sử dụng chỉ báo số lượng như dòng tích lũy / phân phối. Những dòng này cho thấy tỷ lệ mua bán. Các nhà phân tích còn sử dụng chỉ số định hướng trung bình để xác định sức mạnh của một xu hướng hiện tại. Ngoài ra còn có một chỉ số tương đối mới gọi là chỉ số Aroon được sử dụng để dự đoán rằng xu hướng nào có thể xảy ra.
3. Phân biệt giữa phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật
Phân tích cơ bản khác với phân tích kỹ thuật về các khía cạnh bao gồm bản chất của sự tham gia, mục tiêu chính, thời gian và công cụ. Mặc dù chúng khác nhau về nhiều phương diện, cả hai phương pháp đều chú ý đến những biến động trên thị trường và tìm kiếm cơ hội để tăng thu nhập và giảm nguy cơ thua lỗ. Cả hai phương pháp đều tìm kiếm những động thái an toàn.
Cả hai loại phân tích này đều sử dụng lập luận riêng và thực sự không thể xác định được phương pháp nào tốt hơn. Việc lựa chọn nhà đầu tư phụ thuộc vào tình hình và mục tiêu đầu tư. Thêm nữa hai cách tiếp cận này có thể cùng tồn tại. Đối với các nhà phân tích cơ bản, việc xác định thời điểm tốt nhất để tham gia thị trường thông qua phân tích kỹ thuật là rất quan trọng để đạt được thành công lớn.
Mặt khác, nếu bạn là một nhà phân tích kỹ thuật, bạn có thể muốn kiểm tra một số dữ liệu cơ bản quan trọng để khẳng định lại quyết định của mình dựa trên một số tín hiệu mua vào theo xu hướng chuyên môn. Nhiều người cũng đã thu lời khá nhiều bằng cách kết hợp hai phương pháp. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là thực hành thường xuyên và áp dụng triết lý đầu tư phù hợp nhất với kế hoạch đầu tư, sở thích và hoàn cảnh của bạn.
Để kết thúc thì chúng tôi sẽ cung cấp một biểu đồ tuyệt vời hiển thị một cách chi tiết sự khác biệt giữa hai phương pháp. Hãy xem xem loại đầu tư nào phù hợp với cá tính và mục tiêu tài chính của bạn.
Phân tích cơ bản |
Phân tích kỹ thuật |
|
Định Nghĩa |
Các giá trị được tính bằng nhiều yếu tố kinh tế khác nhau |
Dùng những biến động và mô hình về giá trên biểu đồ để dự đoán biến động giá trong tương lai |
Dữ Liệu Lấy Từ |
Báo cáo kinh tế, sự kiện tin tức, thống kê trong ngành |
Phân tích biểu đồ |
Tài Sản Đã Mua |
Khi giá giảm xuống dưới (trên) giá trị cơ bản |
Khi các nhà đầu tư nhận thấy một sự hình thành về giá có khả năng chuyển thành lợi nhuận cao trong tương lai gần |
Những Kiểu Người Giao Dịch |
Thông thường là các nhà đầu tư dài hạn |
Thường là những người giao dịch tự do và nhà đầu tư ngắn hạn |
Quãng Thời Gian |
Thường giữ cổ phiếu trong nhiều ngày, tuần hoặc thậm chí nhiều tháng |
Có thể là dài hạn, nhưng hầu hết chỉ giữ cổ phiếu trong vài ngày, phút, hoặc thậm chí chỉ vài giây |
Khái Niệm Được Sử Dụng |
Báo cáo kỳ vọng so với kết quả thực tế, các sự kiện tin tức hiện tại so với các sự kiện lịch sử |
Xu hướng, hỗ trợ và kháng cự (cung và cầu), lý thuyết cơ bản, các mô hình giá |
Hy vọng qua bài viết này của libra24h.com, các bạn đọc có thêm nhiều kiến thức trong quá trình tìm hiểu về giao dịch thị trường FOREX. Chúc bạn thành công!
Xem thêm:
- Phân tích cơ bản khi giao dịch trên thị trường FOREX
- Tìm hiểu về 3 phương pháp phân tích chính trong giao dịch ngoại hối
Nguồn: Tổng hợp
Hà Thương